Nông nghiệp công nghệ cao ở quanh chúng ta
HKM FARM | http://hmkfarm.com/tuoi-nho-giot/
Ở Việt Nam, khi nói đến nông nghiệp công nghệ cao (NNCNC) là người ta thường nghĩ ngay đến các cánh đồng nhà kính với các thiết bị điều khiển tự động hiện đại theo kiểu Israel, Hà Lan, Mỹ…
Tại cao nguyên Đà Lạt, các doanh nghiệp Nhật Bản đã bỏ vốn đầu tư và thành công với các mô hình rau sạch công nghệ cao đạt tiêu chuẩn xuất khẩu thế giới
|
Không cứ là Israel, Hà Lan...
Vậy, sản xuất NNCNC của Việt Nam có nhất thiết phải xây dựng những cánh đồng nhà kính, nhà lưới với các thiết bị tự động hóa cao của nông nghiệp thông minh như thế không?
Thế nào là công nghệ cao (CNC)? Hiện chưa có một khái niệm cụ thể nào hay một định nghĩa nào nói rõ nội hàm của CNC trong nông nghiệp là những gì, cao như thế nào?
Theo GS Trần Đức Viên - Học viện Nông nghiệp Việt Nam: NNCNC hay ứng dụng CNC vào sản xuất nông nghiệp đều phải hướng tới nền nông nghiệp hữu cơ, an toàn, thân thiện với môi trường, tạo tiềm năng phát triển du lịch nông nghiệp.
Ở Việt Nam từ đầu những năm 2000, sau khi đi thăm một số mô hình NNCNC ở Hà Lan, Mỹ, Israel… một số nhà quản lý nông nghiệp đã quyết tâm đầu tư xây dựng các khu NNCNC của Hadico ở Từ Liêm - Hà Nội (năm 2009) với số vốn đầu tư 24 tỷ đồng trên diện tích 7,5 ha, sau đó là Đồ Sơn (Hải Phòng) (năm 2007) với số vốn đầu tư 22,5 tỷ đồng trên diện tích 8.000m2nhà kính canh tác NNCNC, 5000m2 nhà lưới và 12.000m2 canh tác ngoài trời. Riêng ở khu NNCNC của TP. Hồ Chí Minh, người ta tin rằng đây là một khu NNCNC tiên phong, tiếp cận khoa học kỹ thuật - công nghệ và quản lý mới của thế giới, đưa nền nông nghiệp nước ta hội nhập vào nông nghiệp các nước tiên tiến của thế giới.
Theo thống kê cho biết, từ năm 2004 đến năm 2015 cả nước đã có 34 khu NNCNC được xây dựng ở 19 tỉnh, thành thuộc 7 vùng kinh tế. Đánh giá về hiệu quả hoạt động của các khu NNCNC người ta thấy mới có 1 khu NNCNC có lãi rõ (mô hình trồng rau, hoa ở Đà Lạt), 3 khu NNCNC hoạt động có triển vọng, có thể tồn tại được (Củ Chi - TP. Hồ Chí Minh, An Thái - Bình Dương và Suối Dầu - Khánh Hòa), còn lại là chưa và không có hiệu quả.
Về sản phẩm NNCNC vừa qua chủ yếu là giống cây trồng; vật nuôi cho năng suất cao, chất lượng cao; rau, hoa, quả an toàn, chất lượng cao; cá cảnh, cây dược liệu, bò sữa… Về CNC áp dụng khá đa dạng và phong phú như công nghệ thủy canh, khí canh, màng dinh dưỡng, nuôi cấy mô, chế phẩm sinh học, tưới nước tiết kiệm theo các phương pháp khoa học (tưới nhỏ giọt, tưới phun, tưới nông lộ phơi…), sản xuất nấm và chế phẩm vi sinh, chất điều tiết sinh trưởng, vật liệu mới phục vụ sản xuất ứng dụng CNC, công nghệ chuyển gen và phương pháp chỉ thị phân tử, phương pháp cắt phôi và thụ tinh trong ống nghiệm, công nghệ tinh - phôi đông lạnh, công nghệ sinh học để sản xuất cá đơn tính, nuôi siêu thâm canh bằng hệ thống tuần hoàn, gây đa bội thể để sản xuất cá chất lượng cao…
Rõ ràng phát triển NNCNC là cần thiết, là nhu cầu của cuộc sống. Để chuyển đổi một nền nông nghiệp truyền thống manh mún coi trọng năng suất hơn chất lượng sang một nền NNCNC định hướng thị trường, chủ động với sự thất thường của thời tiết và biến đổi khí hậu, cần có một sự đổi mới căn bản, mạnh mẽ hay nói một cách khác là một cuộc cách mạng nông nghiệp lần thứ 2, trong đó NNCNC là chìa khoa.
Trong điều kiện kinh tế - xã hội đất nước ta như hiện nay thì những công nghệ nào được cho là cao?
Ở các nước sản xuất nông nghiệp tiên tiến thì mục tiêu của họ là nông nghiệp thông minh, các công nghệ mà họ áp dụng là các thành tựu của cuộc cách mạng 4.0. NNCNC của Việt Nam nên lựa chọn các công nghệ phù hợp với trình độ dân trí và trình độ kinh tế - xã hội của từng vùng, miền cụ thể, định hướng thị trường. Vì, suy cho cùng mọi công nghệ đều hướng tới hiệu quả đầu tư, năng suất lao động cao hơn. Ví dụ, vùng hạn, mặn thì ứng dụng công nghệ sinh học để chọn tạo ra các giống cây trồng chịu hạn, chịu mặn. Vùng cao cưỡng gieo trồng các cây công nghiệp, cây ăn quả như mía, chè, cam, quýt, cao su, cà phê… thì ứng dụng phương pháp tưới nước nhỏ giọt, tưới phun, tưới nước kết hợp với việc bón phân trong hệ thống tưới. Vùng trồng chuối, dứa xuất khẩu trên quy mô lớn cần có cây giống nhiều, ra hoa kết quả và thu hoạch đồng loạt thì phải trồng cây con bằng sản phẩm nuôi cấy mô công nghệ sinh học. Vùng trồng rau sạch, rau an toàn để khống chế sâu hại phải được trồng trong nhà lưới và để có năng suất rau cao phải gắn thêm hệ thống nước tưới phun kết hợp bón phân hòa tan trong nước. Đây là phương pháp ứng dụng CNC rất phổ biến ở Đà Lạt (Lâm Đồng) trong sản xuất rau, hoa và các vùng trồng rau sạch ở Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh, Bình Dương…
Để phát triển và ứng dụng NNCNC
Phải thừa nhận rằng thực trạng sản xuất nông nghiệp của chúng ta hiện nay kém hiệu quả có nhiều nguyên nhân. Trong đó đáng chú ý là nông nghiệp Việt Nam tham gia vào chuỗi toàn cầu ở các khâu có giá trị gia tăng thấp, lao động giản đơn, thiếu sự hỗ trợ của công nghiệp, dịch vụ, chế biến nông sản, thiếu thương hiệu có uy tín, sử dụng vật tư, phân bón, giống kém chất lượng dẫn đến chất lượng nông sản xuất khẩu thấp, năng lực cạnh tranh trên thị trường quốc tế thấp. Công tác quản lý nhà nước trong lĩnh vực nông nghiệp yếu kém dẫn đến tình trạng tàn phá tài nguyên, sản xuất không theo tín hiệu thị trường, không theo quy hoạch.
Việc phát triển và ứng dụng NNCNC chỉ là một giải pháp để tái cơ cấu lại ngành nông nghiệp hiện nay nhằm đem lại giá trị gia tăng cao hơn, hiệu quả hơn, chất lượng tốt hơn.
Nhưng để phát triển và ứng dụng NNCNC để sản xuất nông sản hàng hóa trên quy mô lớn cần làm tốt các giải pháp cơ bản sau đây:
Một: Phải có sự liên kết theo chuỗi giá trị trong sản xuất, trong đó có sự liên kết ngang giữa nông dân với nông dân (HTX hay tổ, nhóm sản xuất) và liên kết dọc giữa nông dân với doanh nghiệp, ở đó có sự phân chia lợi ích và trách nhiệm của các tác nhân trong chuỗi ngành hàng, từ người sản xuất đến người phân phối phải công khai, công bằng, minh bạch, đảm bảo quyền lợi và trách nhiệm của các bên liên quan.
Hai: Tổ chức tốt thị trường cả đầu vào và đầu ra, xây dựng và bảo vệ thương hiệu, sản phẩm phải ghi rõ xuất xứ, phải quản lý và nâng cao chất lượng nông sản là mục tiêu ưu tiên hàng đầu để tồn tại và phát triển.
Ba: Cần công nhận thị trường đất đai, đất nông nghiệp phải được xác định theo giá thị trường, không nên đóng khung giá đất cố định 5 năm. Chính sách đất đai nên khuyến khích việc chuyển đổi ruộng đất, cho thuê đất, góp vốn bằng quyền sử dụng đất nông nghiệp để tập trung phát triển sản xuất nông nghiệp hàng hóa quy mô lớn.
Bốn: Khuyến khích doanh nghiệp cả trong và ngoài nước đầu tư và liên kết với nông dân sản xuất theo chuỗi sản phẩm theo cơ chế thị trường. Doanh nghiệp tích tụ đất đai nhưng không làm người nông dân mất kế sinh nhai mà phải giúp họ có cuộc sống tốt hơn. Có được như thế thì nông dân mới tự nguyện nhượng cho doanh nghiệp quyền sử dụng đất hay cho thuê đất lâu dài.
Năm: Cần có chính sách khuyến khích các doanh nghiệp trong và ngoài nước có tiềm lực tài chính đủ và mạnh đầu tư vào phát triển công nghiệp chế biến nông sản và tổ chức thị trường nội địa và xuất khẩu.
Theo báo Lao Động Nghệ An
Comments
Post a Comment